Bé trai bị chít hẹp bao quy đầu có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản (Ảnh minh hoạ)
Hàng triệu bé trai sẽ bị vô sinh vì... bỉm?
Vô sinh nam do đâu?
Những yếu tố làm tăng khả năng vô sinh nam giới
Vô sinh nam và những nguy cơ tiềm ẩn
Có một số bệnh lý thường gặp ở vùng kín của bé cần được phát hiện và can thiệp sớm như thoát vị bẹn, ẩn tinh hoàn (tinh hoàn lạc chỗ), lỗ đái lệch thấp, giãn tĩnh mạch tinh, chít hẹp bao quy đầu... vì hầu hết các bệnh lý này đều ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nếu không được điều trị.
1. Tinh hoàn lạc chỗ
Tinh hoàn là nơi sản xuất nội tiết sinh dục và tinh trùng cho bé trai. Trước khi đứa bé ra đời, tinh hoàn di chuyển từ trong ổ bụng xuyên qua thành bụng ở vùng bẹn vào vị trí của nó là bìu. Nếu sự di chuyển gặp trục trặc, tinh hoàn sẽ nằm đâu đó trên đường đi của nó. Hiện tượng này gọi là tinh hoàn lạc chỗ. Khi sờ bìu của con không thấy có tinh hoàn thì có thể bé đã bị ẩn tinh hoàn. Dị tật này dễ phát hiện và không cần đưa bé đi khám sớm quá vì thời gian đầu (trước 1 tuổi) tinh hoàn có thể tự đi xuống bìu. Sau 1 tuổi mà vẫn không sờ thấy tinh hoàn trong bìu con thì cha mẹ nên đưa con đi khám để điều trị.
2. Thoát vị bẹn
Một túi nhỏ thông từ khoang bụng chui ra lỗ bẹn sẽ được bít lại khi trẻ sinh ra nhưng vì lý do nào đó, túi thoát vị này không bít lại, các cơ quan trong ổ bụng như ruột chui vào và tạo nên một khối phồng ở vùng bẹn, bìu ở trẻ, gọi là thoát vị bẹn. Trường hợp khối thoát vị sa xuống mà không tự lên được thì trẻ sẽ rất đau và la khóc, gọi là thoát vị bẹn nghẹt. Đây là bệnh lý cần cấp cứu ngay và xử lý bằng ngoại khoa nếu không ruột sẽ bị hoại tử. Trường hợp khác phải phẫu thuật là khi trẻ 4 - 5 tuổi trở lên mà khối thoát vị vẫn còn. Thoát vị bẹn dễ bị nhầm lẫn với ứ nước màng tinh và ẩn tinh hoàn. Tuy nhiên, có thể phân biệt như sau: Khối phồng thường xuất hiện khi bé quấy khóc hoặc chạy nhảy, có thể di chuyển lên xuống mà không cố định, khi trẻ nằm thì xẹp đi.
Cha mẹ cần quan tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản ngay từ khi con còn nhỏ
3. Chít hẹp bao quy đầu
Bao quy đầu là một nếp da mỏng, dễ đàn hồi, trùm lên toàn bộ quy đầu của dương vật. Chít hẹp bao quy đầu là tình trạng vòng bao quy đầu bị hẹp ở các mức độ khác nhau nên không thể lộn được bao quy đầu. Đa số chít hẹp bao quy đầu là do bẩm sinh. Trẻ có dấu hiệu đái khó và phải rặn mạnh, tia nước tiểu nhỏ trong khi bao quy đầu chứa đầy nước tiểu căng phồng lên, vuốt nhẹ da bao quy đầu ra phía sau không nhìn thấy lỗ đái. Hẹp bao quy đầu nếu không được xử lý sớm sẽ khiến bé đi tiểu khó, nước tiểu ra không hết cộng với chất cặn đọng lại bên trong lâu dần thành những cục to, gây viêm nhiễm.
4. Giãn tĩnh mạch tinh
Đây là tình trạng giãn ngoằn ngoèo các tĩnh mạch nằm phía trên tinh hoàn. Nguyên nhân do gia tăng áp lực của tĩnh mạch thận trái hoặc van tĩnh mạch có bất thường. Giãn tĩnh mạch thừng tinh thường do máu chảy ngược về chỗ thấp (thay vì chảy về tim). Tĩnh mạch bị giãn làm ứ đọng máu vùng tinh hoàn. Tình trạng này gây cản trở việc tưới máu cho tinh hoàn, ảnh hưởng đến sản xuất tinh khi trưởng thành. Hầu hết giãn tĩnh mạch thừng tinh không có triệu chứng. Thỉnh thoảng, có thể gây đau nhẹ hay cảm giác nặng ở vùng bìu hoặc thấy sưng ở phía trên bìu. Bệnh có thể làm giảm khả năng sinh tinh trùng, teo tinh hoàn, đau bìu kéo dài.
5. Lỗ đái lệch thấp
Đây là một dị tật bẩm sinh. Lỗ đái không đổ ra ở đỉnh quy đầu mà ở mặt dưới của dương vật, bìu và đáy chậu (ở vị trí từ gốc bìu tới lỗ hậu môn). Do vậy, bệnh nhân không đi tiểu được một cách bình thường mà có khi phải đái ngồi như con gái, thậm chí tia nước tiểu còn vọt ra phía sau mông. Nếu lệch thấp về phía dưới, lỗ đái thường rộng, còn khi lệch về phía gần quy đầu thì lỗ đái thường hẹp và bệnh nhân đái khó, tia nhỏ. Bệnh này nên chữa sớm khi trẻ 5 - 6 tuổi, cơ quan sinh dục chưa phát triển.
6. Ứ nước màng tinh hoàn
Khi nằm trong bụng mẹ, trẻ nào cũng có một ống nhỏ nối liền từ bụng tới phần bìu nhưng khi sinh ra ống này bị bịt lại. Tuy nhiên, ở nhiều trẻ do còn ống thông này nên nước từ ổ bụng chảy xuống bìu gây ra bệnh ứ nước màng tinh hoàn. Khi đó, tinh hoàn bị nằm trong một bọc nước, một hoặc cả hai bên bìu của trẻ to, căng toàn nước. Nhiều trẻ vừa đẻ ra đã có hiện tượng trên và có thể sau 1 - 2 tháng thì hết. Nếu sau 1 tuổi vẫn còn thì cần đưa con đi khám bệnh, không để tinh hoàn luôn nằm trong bọc nước, sẽ không phát triển được. Bệnh thường phải xử lý bằng phẫu thuật thắt ống thông, giải thoát hết nước ở màng tinh hoàn.
7. Quai bị
Quai bị là một bệnh nhiễm trùng gây ra sưng các tuyến nước bọt. Đặc biệt là bệnh ảnh hưởng tới các tuyến đằng trước mang tai, khiến cho má bé trông có vẻ phình ra. Bé sẽ phát ra triệu chứng bệnh từ hai đến bốn tuần sau khi bị lây nhiễm. Bệnh quai bị gây ra viêm tinh hòan tuy nhiên biến chứng này rất hiếm gặp ở các bé trai trước tuổi dậy thì. Bệnh do virút có tên khoa học là Paramyxovirút gây nên, bệnh chỉ xuất hiện ở người, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi, nhất là trẻ từ 6-10 tuổi. Bệnh thường phát vào mùa đông xuân, khi thời tiết bắt đầu chuyển lạnh, đặc biệt là là thời gian giáp Tết. Bệnh xuất hiện ở những nơi đông người như: Nhà trẻ, trường học, ký túc xá, khu tập thể…
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do nước bọt bị nhiễm trùng khi người bệnh nói chuyện, ho hoặc hắt hơi. Bệnh có thể lây cho người tiếp xúc ở một tuần trước khi tuyến mang tai sưng và kéo dài 2 tuần sau khi thấy sưng tuyến mang tai. Về phòng bệnh, điều trước tiên là người bệnh phải được cách ly tại nhà, không đi học, hạn chế tiếp xúc với người bệnh, khi tiếp xúc phải mang khẩu trang. Thời gian cách ly người bệnh trong khoảng 10 ngày kể từ khi bắt đầu sưng tuyến mang tai.
Về điều trị, hiện nay quai bị chưa có thuốc đặc trị, mà chủ yếu là điều trị triệu chứng và nâng đỡ cơ thể. Nằm nghỉ tuyệt khi có sưng tinh hoàn. Trường hợp viêm tinh hoàn, cần mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau và dùng corticoid liều cao ngay từ đầu, thường dùng prednisolon 60mg/ngày, sau đó giảm dần trong 7-10 ngày.
8. Cong, vẹo dương vật
Khi dương vật cương cứng thì bị cong vẹo xuống phía dưới hoặc sang một bên, kèm theo xoay trục nên trông như quả chuối cong. Lúc bệnh nhân còn nhỏ, dị tật này còn có thể chưa rõ hoặc chưa được chú ý lắm. Nhưng khi lớn lên, tình trạng cong vẹo rõ hơn hoặc do bệnh nhân quá để ý nên càng thấy cong, sinh ra bi quan, mặc cảm. Dị tật này chữa được và nên mổ khi bệnh nhân còn nhỏ, trước tuổi đi học.
Bình luận của bạn